NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA THIÊN ẤT QUÝ NHÂN

     Thiên ất quý nhân là sự huyền diệu của Âm dương phối hợp, là một trong những thần sát may mắn nhất trong hệ thống thần sát của thuật trạch cát. Phương mà Thiên ất quản thì mọi hung sát đều tránh xa, không dám tác quái vậy.

     Lữ Hải Tập nói rằng: “Thiên Ất quý nhân phân ra làm Dương quý và Âm quý”.
     Đại khái Dương quý thì khởi ở Tý mà đi thuận, còn Âm quý thì khởi ở Thân mà đi nghịch. Âm dương phối hợp mà thành, vì thế thường cát khánh, có thể giải hung ách vậy.


(Chạm vào hình ảnh để xem rõ hơn)



     Phép tính toán Thiên ất, trước tiên hãy xét đến Dương quý trước đã.
     Lấy Giáp gia Tý, Giáp hợp với Kỷ, cho nên Kỷ dùng Tý làm Quý nhân.
     Lấy Ất gia Sửu, Ất hợp với Canh, cho nên Canh dùng Sửu làm Quý nhân.
     Lấy Bính gia Dần, Bính hợp với Tân, cho nên Tân dùng Dần làm Quý nhân.
     Lấy Đinh gia Mão, Đinh hợp với Nhâm, cho nên Nhâm dùng Mão làm Quý nhân.
     Thìn là Thiên cương, Quý nhân không lâm tới.
     Lấy Mậu gia Tị, Mậu hợp với Quý, cho nên Quý dùng Tị làm Quý nhân.
     Ngọ xung với Tý, nguyên không có số.
     Lấy Kỷ gia Mùi, Kỷ hợp với Giáp, cho nên Giáp dùng Mùi làm Quý nhân.
     Lấy Canh gia Thân, Canh hợp với Ất, cho nên Ất dùng Thân làm Quý nhân.
     Lấy Tân gia dậu, Tân hợp với Bính, cho nên Bính dùng Dậu làm Quý nhân.
     Tuất là Hà khôi, Quý nhân không lâm tới.
     Lấy Nhâm gia Hợi, Nhâm hợp với Đinh, cho nên Đinh dùng Hợi làm Quý nhân.
     Tý là nguyên cung nên không có số.
     Lấy Quý gia Sửu, Quý hợp với Mậu, cho nên Mậu dùng Sửu làm Quý nhân.

     Lượng Thiên Xích chú giải: “Căn cứ vào đoạn văn trên thì thấy rằng Thiên ất quý nhân là Cát thần niên phương của Tuế can, muốn tính được Thiên ất quý nhân thì trước tiên phải thuộc phương pháp gia số của Thiên can, kế đến là sự tương hợp của Thiên can. Bởi vì Thiên ất chính là gia số của Thiên can tương hợp mà thành vậy. Khởi đầu tại cung Tý, cụ thể như sau:
Giáp gia Tý
Ất gia Sửu
Bính gia Dần
Đinh gia Mão
Thìn là Thiên cương nên không gia số
Mậu gia Tị
Ngọ xung với Tý nên không có số
Kỷ gia Mùi
Canh gia Thân
Tân gia Dậu
Tuất là Hà khôi nên không gia số
Nhâm gia Hợi
Tý là nguyên cung nên không có số
Quý gia Sửu

     Còn như thập can tương hợp thì ai học thuật số Phương Đông cũng đều rõ cả.
Giáp hợp Kỷ
Ất hợp Canh
Bính hợp Tân
Đinh hợp Nhâm
Mậu hợp Quý

     Cứ xét theo nghĩa lý như trên thì Giáp gia Tý, Giáp hợp với Kỷ nên Kỷ dùng Tý làm Dương quý nhân. Các thiên can khác cứ phỏng theo như thế mà tính, Âm quý nhân cũng tính như vậy cả. Vả nữa, Thiên ất quý nhân được tính dựa trên can năm và can ngày, không tính cho can tháng vậy.”

     Âm quý nhân thì lấy Giáp gia Thân, Giáp hợp với Kỷ, cho nên Kỷ dùng Thân làm Quý nhân.
     Lấy Ất gia Mùi, Ất hợp với Canh, cho nên Canh dùng Mùi làm Quý nhân.
     Lấy Bính gia Ngọ, Bính hợp với Tân, cho nên Tân dùng Ngọ làm Quý nhân.
     Lấy Đinh gia Tị, Đinh hợp với Nhâm, cho nên Nhâm dùng Tị làm Quý nhân.
     Thìn là Thiên cương, Quý nhân không lâm tới.
     Lấy Mậu gia Mão, Mậu hợp với Quý, cho nên Quý dùng Mão làm Quý nhân.
     Dần xung thân, nguyên không có số.
     Lấy Kỷ gia Sửu, Kỷ hợp với Giáp, cho nên Giáp dùng Sửu làm Quý nhân.
     Lấy Canh gia Tý, Canh hợp với Ất, cho nên Ất dùng Tý làm Quý nhân.
     Lấy Tân gia Hợi, Tân hợp với Bính, cho nên Bính dùng Hợi làm Quý nhân.
     Tuất là Hà khôi, Quý nhân không lâm tới.
     Lấy Nhâm gia Dậu, Nhâm hợp với Đinh, cho nên Đinh dùng Dậu làm Quý nhân.
     Thân là nguyên cung nên không có số.
     Lấy Quý gia Mùi, Quý hợp Mậu, cho nên Mậu dùng Mùi làm Quý nhân.

     Kể như trên thì âm dương Quý nhân đã rõ ràng rồi vậy. Học giả cứ theo đó mà tính toán thì quyết không sai.
     Người xưa nói rằng: “Sửu Mùi là cửa xuất nhập của Quý nhân”. Vì sao lại nói như vậy? Bởi vì
     Dương quý lấy Giáp khởi ở Tý, theo Sửu mà đi thuận, đến cung Quý lại quay về Sửu.
     Còn Âm quý lấy Giáp khởi ở Thân, theo Mùi mà nghịch hành, đến cung Quý lại quay về Mùi.
     Như vậy chẳng phải là Sửu Mùi là cửa xuất nhập của Quý nhân hay sao.

     Thuyết trên là của Lữ Hải Tập, còn như ông Tào Chấn Khuê thì lại đưa ra thuyết khác hoàn toàn về âm dương. Đại để Dương quý của thuyết này lại là Âm quý của thuyết kia vậy.

     Tào Chấn Khuê nói rằng: “Thiên ất chính là một ngôi Sao ở phía bên trái khu của Tử vi viên, làm chủ vạn thần vậy, một ngày hai mặt âm dương chia nhau nội ngoại.

     Thìn Tuất chính là ngôi vị của Khôi – Cương nên Quý nhân không lâm tới. Mậu đem phối với ngôi vị ở trung ương, chính là tượng cho hậu cung của Câu trần, vì thế nó với Giáp cùng khởi lệ vậy.

     Lấy Sửu, chính là bên trái cửa sau của Tử vi, thần dương giới vậy. Mùi chính là bên phải cửa nam của Tử vi, thần của âm giới vậy. Giáp là đầu của mười can, vì vậy dương Quý lấy Giáp gia Sửu nghịch hành. Giáp được Sửu, Ất được Tý, Bính được Hợi, Đinh được Dậu, Kỷ được Thân, Canh được Mùi, Tân được Ngọ, Nhâm được Tị, Quý được Mão. Đó là Quý về ban ngày, tức dương Quý nhân vậy.
     Âm Quý lấy Giáp gia Mùi, thuận hành. Giáp được Mùi, Ất được Thân, Bính được Dậu, Đinh được Hợi, Kỷ được Tý, Canh được Sửu, Tân được Dần, Nhâm được Mão, Quý được Tị. Đó là Quý về ban đêm, tức âm Quý nhân vậy.
     Mậu để trợ cho Giáp thành công, vì thế cũng được Sửu Mùi như Giáp vậy.

      Lượng Thiên Xích gợi ý: “ Để nắm vững cách an bài Thiên ất quý nhân tất nhiên phải hiểu về lý lẽ như đã trình bày ở trên, tuy nhiên có một cách an Quý nhân dễ thuộc hơn, chỉ cần bấm đốt ngón tay là ra. Trước tiên cần tìm hiểu vị trí của địa chi trên bàn tay.


(Chạm vào hình ảnh để xem rõ hơn)


     Lưu ý rằng vị trí địa chi trên bàn tay này là cố định cho mọi phép tính sau này vậy.

     Bàn tay dương Quý nhân được khởi như sau:

(Chạm vào hình ảnh để xem rõ hơn)

     Năm Giáp dương Quý nhân tại Mùi, năm Ất dương Quý nhân tại Thân, năm Bính dương Quý nhân tại Dậu. Cứ thuận hành như vậy.

     Bàn tay âm Quý nhân được khởi như sau:


(Chạm vào hình ảnh để xem rõ hơn)

     Năm Giáp âm Quý nhân tại Sửu, năm Ất âm Quý nhân tại Tý, năm Bính âm Quý nhân tại Hợi. Cứ nghịch hành như vậy mà tính toán.



     Về lý luận Phong thủy thì cho rằng Thiên ất quý nhân chiếu tới phương nào thì nên khởi công, động thổ, tu tạo ở đó, gia đạo tất nhiên sẽ có sự cát tường, giải được hung ách. Còn trong khoa Tử vi thì Thiên ất quý nhân chính là Thiên khôi và Thiên việt vậy. Trong đó dương Quý nhân chính là Thiên khôi, còn âm Quý nhân chính là Thiên việt vậy.

     Nghĩa lý khởi lệ là chung, sử dụng ra sao thì tùy vào từng hệ phái vậy.

LƯỢNG THIÊN XÍCH

Bài đăng phổ biến