NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA PHI THIÊN MÃ
Phi thiên Lộc
- Mã - Thiên ất quý nhân có sự giống nhau ở chỗ, cả ba đều là Cát thần niên
phương, sử dụng đến Thiên can và địa chi của năm, của ngày để tính toán. Giả
như vòng tính của năm thì ứng vào tháng, vòng tính của ngày thì ứng vào giờ vậy.
Tuyệt không có nguyên lý tính Lộc - Mã - Thiên ất quý nhân dựa trên Thiên can,
địa chi của tháng. Vậy không có nghĩa là hàng tháng không có Lộc - Mã - Quý
nhân, mà do hàng Can chi của tháng thì dùng đến phép Phi thiên vậy.
Phương
pháp tính toán Phi thiên mã kỳ thực cũng giống như pháp tính của Phi thiên lộc,
tuy nhiên Lộc thì lấy Thiên can để tính toán, còn Mã thì lấy Tam hợp địa chi để
tính toán, còn nguyên lý khởi lệ vòng phi thì không sai khác. Dùng Chân mã của
Thái tuế, theo Nguyệt kiến mà nhập vào trung cung, dùng bộ vị Lượng thiên xích
mà khởi phi. Chân mã đến cung nào thì cung đó là Phi thiên mã của tháng đó vậy.
Có
câu: “Lộc, mã, quý nhân - Sơn phương phùng cát”. Thông thư cũng nói rằng: “Mã
đáo đầu non người phú quý - Lộc đáo đầu non vượng tử tôn”, bởi vậy việc khai
sơn lập hướng cho âm dương nhị trạch rất chú trọng đến Phi thiên mã, là một
trong các yếu tố tuyển trạch cát thời. Phương pháp xác định là, đầu tiên tìm
Can chi Tuế mã của năm, đây được gọi là Chân mã. Sau đó lấy Can chi của Nguyệt
kiến nhập vào trung cung, theo Cửu cung mà phi thuận. Gặp Chân mã ở đâu thì
cung đó được cho là cát.
Thân,
Tý, Thìn thì Mã tại Dần
Tị,
Dậu, Sửu thì Mã ở Hợi
Dần,
Ngọ, Tuất thì Mã ở Thân
Hợi,
Mão, Mùi thì Mã ở Tị
Đây
chính là Dịch mã như đã nói ở phần trước rồi.
Như
năm Giáp tý, Thiên mã tại Dần, dùng Ngũ hổ độn, độn được là Bính dần, vậy Bính
dần là Chân mã của năm Giáp tý. Tháng giêng của năm Giáp tý có Nguyệt kiến là
Bính dần. Lấy Bính dần nhập trung cung, cũng tức là Phi thiên mã ở trung cung vậy.
Tháng
hai là Đinh mão, lấy Đinh mão nhập trung cung, phi thuận thì Bính dần tới cung
Khảm, cũng tức là Phi thiên mã ở cung Khảm vậy.
Tháng
ba là Mậu thìn, lấy Mậu thìn nhập trung cung, phi thuận thì Bính dần tới cung
Ly, cũng tức là Phi thiên mã ở cung Ly vậy.
Những
tháng khác phỏng theo như thế.
Như
năm Ất sửu, Thiên mã tại Hợi, dùng Ngũ hổ độn, độn được là Đinh hợi, vậy Đinh hợi
là Chân mã của năm Ất sửu.
Tháng
giêng của năm Ất sửu có Nguyệt kiến là Mậu dần. Lấy Mậu dần nhập trung cung,
phi thuận thì Đinh hợi nhập trung cung, cũng tức là Phi thiên mã ở trung cung vậy.
Tháng
hai là Kỷ mão, lấy Kỷ mão nhập trung cung, phi thuận thì Đinh hợi tới cung Tốn,
tức là Phi thiên mã ở cung Tốn vậy.
Tháng
ba là Canh thìn, lấy Canh thìn nhập trung cung, phi thuận thì Đinh hợi tới cung
Chấn, tức là Phi thiên mã ở cung Chấn vậy.
Các
tháng khác phỏng theo như thế.
Dưới
đây là đồ hình Phi thiên mã lập thành để độc giả dễ bề khảo cứu.
Trên
đây là thuyết được đề cập trong “Tông kính”. Tất nhiên cũng giống như Phi thiên
lộc. Phi thiên mã cũng có một bản tính toán khác dựa theo “Thông thư”, nhưng
cách tính đơn giản hơn, chỉ lấy Địa chi của Mã mà không lấy Thiên can để gia
thêm vào.
Như
các năm Thân, Tý, Thìn thì Mã tại Dần.
Tháng
giêng kiến Dần. Lấy Dần nhập trung cung, tức là Phi thiên mã của tháng giêng ở
trung cung.
Tháng
hai kiến Mão. Lấy Mão nhập trung cung, phi thuận thì Dần tới cung Đoài, tức là
Phi thiên mã của tháng hai ở cung Đoài.
Tháng
ba kiến Thìn. Lấy Thìn nhập trung cung, phi thuận thì Dần tới cung Càn, tức là
Phi thiên mã của tháng ba ở cung Càn.
Các
tháng khác phỏng theo như thế.
Lại
lấy ví dụ những năm Tị, Dậu, Sửu thì Mã tại Hợi.
Tháng
giêng kiến Dần. Lấy Dần nhập trung cung, phi thuận thì Hợi nhập trung cung, tức
là Phi thiên mã của tháng giêng tại trung cung.
Tháng
hai kiến Mão. Lấy Mão nhập trung cung, phi thuận thì Hợi tới cung Tốn, tức là
Phi thiên mã của tháng hai ở cung Tốn.
Tháng
ba kiến Thìn. Lấy Thìn nhập trung cung, phi thuận thì Hợi tới cung Chấn, tức
là Phi thiên mã của tháng ba ở cung Chấn.
Ngoài
ra phỏng theo thế.
Việc
tồn tại cả hai bản tính toán này xét ra đều có lý do riêng cả. Tùy căn cơ, trường
phái mà sử dụng.
LƯỢNG THIÊN XÍCH