NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA TUẾ LỘC
Năm Giáp tại Dần, năm Ất tại
Mão, năm Bính tại Tị, năm Đinh tại Ngọ, năm Mậu tại Tị, năm Kỷ tại Ngọ, năm
Canh tại Thân, năm Tân tại Dậu, năm Nhâm tại Hợi, năm Quý tại Tý.
Xét Tuế lộc là phương Lâm
quan của Tuế can. Căn cứ vào sự vượng suy của Ngũ hành, Lâm quan là thời đương
thịnh, Đế vượng thì thái quá vậy. Vì thế Lộc mệnh gia lấy Lâm quan là Lộc mà Đế
vượng là Nhẫn.
Ví dụ như năm Giáp, Ngũ
hành là dương Mộc, khởi trường sinh ở Hợi. Thuận hành đến Lâm quan ở cung Dần,
vì vậy Giáp lấy Dần làm Lộc.
Năm Ất, Ngũ hành là âm Mộc,
khởi trường sinh ở Ngọ. Nghịch hành đến Lâm quan ở cung Mão, vì vậy Ất lấy Mão
làm Lộc.
Các Can khác cứ vậy mà suy
ra.
Lượng Thiên Xích chú: “Mười
hai cung Trường sinh chỉ trạng thái hưng vong của vạn vật gồm Trường sinh, Mộc
dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng. Thì từ
Trường sinh đến Đế vượng là cát vị. Từ Suy đến Dưỡng là hung vị. Trong đó thời
Lâm quan là tối cát, khí thế đang lên phơi phới, thời Đế vượng là cực phẩm nên
chuẩn bị đến thời Suy. Vì vậy mới lấy Lâm quan làm Lộc vị vậy. Trong mười hai địa
chi thì chỉ có Tý, Dần, Mão, Tị, Ngọ, Thân, Dậu, Hợi là nơi Tuế lộc lâm vào,
còn Sửu Mùi là nơi âm dương phân giới, Thìn Tuất là đất Thiên la và Địa võng,
là những nơi Lộc không chiếu tới vậy.
Các môn thuật số nghiên cứu
về địa lý và nhân mệnh đều rất coi trọng Tuế lộc. Tùy từng môn mà có cách gọi
khác nhau như Thiên lộc, Lộc tồn... Song nguyên lý đều là một. Đồng thời phân
chia ra lộc của năm gọi là Tuế lộc, lộc của ngày gọi là Nhật lộc. Trong hệ thống
tính toán Thần sát thì các Nguyệt thần đều dùng địa chi để tính toán, vì vậy
không có lệ về Nguyệt lộc vậy.”
LƯỢNG THIÊN XÍCH