NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA ĐẠI TƯỚNG QUÂN


“Thần khu kinh” nói rằng: “Đại tướng quân là đại tướng của Tuế, thống ngự uy vũ đánh dẹp. Nếu quốc gia lệnh cho tướng xuất quân, công thành, chiến trận, thì nên quay lưng lại. Hễ tu tạo đều không thể phạm”.

Ông Lý Đỉnh Tộ nói rằng: “Mạnh Tuế lấy Thắng quang, Trọng tuế lấy Tiểu cát, Quý tuế lấy Truyền tống, gia thêm trên Tuế chi, thuận số, đến cung nào gặp Thiên cương thì cung đó là Đại tướng quân vậy”.




Ông Tào Chấn Khuê nói: “Đại tướng quân, đức của nó trung trực, thường đóng ở tứ chính, ba năm di chuyển một lần, đất chỗ nó quản, có thể lệnh cho tướng tuyển người uy dung để dẹp kẻ bất nghĩa”.

“Khảo nguyên lịch” lại nói rằng: “Đại tướng quân là chức quan cai quải về võ, tượng của dũng sĩ hộ vệ, vì vậy đóng ở tứ chính mà theo sau Tuế quân. Như Dần Mão Thìn, Tuế tại đông phương, thì Đại tướng quân đóng tại chính bắc. Tị Ngọ Mùi, Tuế tại nam phương, thì Đại tướng quân đóng tại chính đông. Thân Dậu Tuất, Tuế tại tây phương, thì Đại tướng quân đóng tại chính nam. Hợi Tý Sửu, Tuế tại bắc phương, thì Đại tướng quân đóng tại chính tây”.

Lượng Thiên Xích chú: “Chỗ mà ông Lý Đỉnh Tộ nói có thể giải thích như sau: Mạnh tuế, là các năm Dần Thân Tị Hợi. Trọng tuế, là các năm Tý Ngọ Mão Dậu. Quý tuế, là các năm Thìn Tuất Sửu Mùi. Thắng quang là cung Ngọ, Tiểu cát là cung Mùi, Truyền tống là cung Thân, Thiên cương là cung Thìn vậy.

Cho nên những năm Mạnh tuế (Dần Thân Tị Hợi) thì dùng Thắng quang (Ngọ) gia vào Tuế chi, thuận số đến Thiên cương (Thìn) thì Đại tướng quân đóng ở đó.
Những năm Trọng tuế (Tý Ngọ Mão Dậu) thì dùng Tiểu cát (Mùi) gia vào Tuế chi, thuận số đến Thiên cương (Thìn) thì Đại tướng quân đóng ở đó.
Những năm Quý tuế (Thìn Tuất Sửu Mùi) thì dùng Truyền tống (Thân) gia vào Tuế chi, thuận số đến Thiên cương (Thìn) thì Đại tướng quân đóng tại đó.

Ví dụ như năm Tý, thuộc về Trọng tuế. Gia Mùi (Tiểu cát) vào cung Tý, thuận số vận hành thì Thìn (Thiên cương) tới cung Dậu. Vậy Dậu là Đại tướng quân của Tuế Tý.
Lại ví dụ năm Ngọ, cũng thuộc về Trọng tuế. Gia Mùi (Tiểu cát) vào cung Ngọ, thuận số vận hành thì Thìn (Thiên cương) tới cung Mão. Vậy Mão là Đại tướng quân của Tuế Ngọ.
Lại ví dụ thêm năm Thân, thuộc về Mạnh tuế. Gia Ngọ (Thắng quang) vào cung Thân, thuận số vận hành thì Thìn (Thiên cương) tới cung Ngọ. Vậy Ngọ là Đại tướng quân của Tuế Thân. Ngoài ra cứ phỏng theo như thế.

Xét Đại tướng quân chính là Thiên cương gia số, tính cương mãnh, chính trực nên có tượng của dũng sĩ hộ vệ, tức là võ quan tại triều cương. Bởi vậy chủ việc đánh dẹp, trừ giặc phản nghịch. Cũng thích hợp cho việc tróc nã trộm cướp, tập hợp những người nghĩa dũng để cùng nhau trừ đi đám bất nghĩa. Ở thời loạn cần Đại tướng quân đã đành, trong thời bình cũng rất cần. Ví như cảnh sát bắt đạo tặc, nếu đứng ở nơi Đại tướng quân mà xung kích về hướng đạo tặc đang nấp thì lo gì không bắt được. Hay như những người chính trực muốn đấu tranh với người bất nghĩa, cứ chọn phương có Đại tướng quân mà xung kích về đối phương thì lo gì chính nghĩa không thắng lợi.

Nay lại ví dụ thêm chuyện nữa. Chiếu theo đồ hình đã lập sẵn bên trên, năm Tý thì Đại tướng quân ở cung Dậu (chính tây). Nếu hình cảnh đi tróc nã đạo tặc thì cứ lựa thế đứng ở hướng chính tây mà xung kích về hướng chính đông, nơi đạo tặc đang nấp thì sẽ cát lợi. Còn theo thuật Phong thủy, Đại tướng quân là hung thần, phương nó quản kị cho việc tu tạo, nếu phạm phải thì dễ có tai nạn xảy ra”.


LƯỢNG THIÊN XÍCH


Bài đăng phổ biến